Trong các xã hội tiền nhà nước, luật tục
giữ vai trò thống trị. Cũng như ở Việt Nam, các dân tộc ở các nước trên thế
giới đều có luật tục riêng của mình để điều chỉnh các quan hệ trong cộng đồng
tộc người.
Khái niệm luật tục được các nhà khoa học nước ta bàn luận nhiều, nhưng về cơ
bản thống nhất khái niệm được đưa vào Từ điển Luật học: “Luật tục là những quy
tắc xử sự mang tính chất bắt buộc do các cộng đồng làng xã xây dựng nên và được
truyền từ đời này sang đời khác”(1). Luật tục có thể tồn tại bằng truyền miệng
hoặc có thể được ghi bằng văn bản. Luật tục là pháp luật của các cộng đồng làng
xã hoặc của cả một cộng đồng dân tộc thiểu số. Luật tục, khi có nội dung phù
hợp với tiến bộ xã hội, tạo được công bằng, công lý và trật tự xã hội, thì được
Nhà nước thừa nhận và trở thành pháp luật tập quán, còn nếu cổ hủ, lạc hậu hoặc
mang tính chất mê tín dị đoan thì sẽ bị Nhà nước cấm đoán(2).
Luật tục hay tập quán pháp, tương đương với các thuật ngữ nước
ngoài “Customary laws”, “Folk laws” là một hiện tượng xã hội phổ biến của nhân
loại ở thời kỳ phát triển tiền công nghiệp và còn tồn tại đến ngày nay trong
nhiều tộc người trên thế giới, nhất là ở châu Á và châu Phi(3). Cho đến thế kỷ
XIX, các chính phủ thực dân trên toàn thế giới chủ yếu quan tâm đến việc kiểm
soát các trung tâm thương mại. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển các thuộc địa
thương mại thành các thuộc địa sản xuất, các chính quyền thuộc địa ngày càng
tiếp xúc với người dân bản địa nhiều hơn. Trong các nỗ lực, nhằm giành quyền
kiểm soát, họ phải xác định mối quan hệ của họ đối với những hệ thống pháp luật
và chính trị hiện hành. Nhìn chung, họ kiềm chế không can thiệp vào luật gia
đình nhưng họ không thể đơn giản bỏ mặc cho luật tục điều chỉnh các đối tượng
khác, chẳng hạn như Luật Hình sự và Luật Ruộng đất có liên quan đến vị trí
chính trị và kinh tế của các chính quyền thực dân và các mối quan hệ kinh tế
của họ với người địa phương.
Các cường quốc thực dân khác nhau có chính sách rất khác
nhau. Với truyền thống tập trung hóa của mình, Cộng hòa Pháp là một điển hình
cho thái cực nỗ lực trong việc giảm bớt quyền lực của các hệ thống luật hiện
hành của Nhà nước thuộc địa. Vương quốc Anh lại ở một thái cực khác, họ rất chú
trọng đến việc thống trị một cách gián tiếp, nhưng đồng thời công nhận luật tục
một cách rộng rãi. Hà Lan có một quan điểm dung hòa, cũng như ở các nước thuộc
địa khác, ở Hà Lan đã diễn ra các cuộc tranh luận về thể chế và phạm vi ảnh
hưởng của cái gọi là luật “Adat” của những người Anh Điêng ở Đông Hà Lan(4).
Sau khi giành độc lập, các quốc gia mới phải
xem xét lại hình thức và tình trạng trật tự pháp luật của họ, phần lớn các nước
lựa chọn chính sách Mẫu quốc thực dân và thuần túy tiếp quản luật thực dân
trước đây, kể cả chính sách công nhận luật tục. Một số nước, trong đó có Malawi, cố gắng
thiết lập một trật tự pháp lý có tính “bản địa” hơn. Về danh nghĩa, Indonesia tuyên
bố đã bản địa hóa hệ thống pháp luật của mình; trên thực tế, đất nước này vẫn
tiếp tục phát triển theo hướng thống nhất pháp luật mà đã được khởi xướng bởi
Chính phủ của những người Anh Điêng ở Đông Hà Lan.
Ở các nước có dân bản xứ như: Canada, Hoa
Kỳ, New Zealand
và một số nước ở Mỹ La tinh, nhân quyền, đặc biệt là việc bảo vệ quyền văn hóa
và quyền tự quyết của người dân bản xứ đã trở thành trọng tâm của các cuộc
tranh luận hiện nay. Cuộc tranh luận cũng được tiến hành trong bối cảnh quản lý
về tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Các nhóm người bản địa đang cố
gắng phát triển các hình thức quản lý “bản địa” đối với rừng nhiệt đới, đất và
nước, đồng thời kêu gọi công nhận các quyền của các cộng đồng địa phương. Vấn
đề đa dạng pháp luật không chỉ hạn chế ở mối quan hệ giữa luật pháp và luật tục.
Ở nhiều nước, có phần đông dân số là Hồi giáo, nhiều người đã lên tiếng đòi hỏi
sử dụng Luật Hồi giáo để thay thế cho luật quốc gia. Thông thường, đây chính là
hành động phản ứng lại chính sách thế tục hóa trước đây đã từng xảy ra ở Thổ
Nhĩ Kỳ. Ở Nepal,
Luật Hindu được coi là cơ sở cho hệ thống luật của Nhà nước. Ở cả Nepal và Ấn Độ,
sự đa dạng của Luật Hindu và Luật Hồi giáo địa phương là một đặc điểm của một
hệ thống pháp luật của các quốc gia này(5).
Dòng pháp luật châu Âu lục địa (Civil Law) đã
tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về vai trò của tập quán pháp luật. Có quan
điểm xã hội học pháp luật cho rằng, tập quán đóng vai trò chủ đạo trong các
nguồn của pháp luật, chính tập quán là nền tảng của pháp luật, xác định các
phương pháp áp dụng, phát triển của pháp luật do thẩm phán, học thuyết đưa ra.
Đối với quan điểm trên, trường phái pháp luật thực định phủ nhận vai trò của
tập quán. Cả hai trường phái nêu trên, hoặc quá tả hoặc quá hữu đều không có
quan điểm đúng đắn về tập quán pháp luật. Tập quán không phải là yếu tố chính
và đầu tiên của pháp luật, nó chỉ là một trong những yếu tố tìm ra giải pháp
công minh để giải quyết các vấn đề pháp luật. Trên thực tế, các nước theo
truyền thống Civil Law đều thừa nhận tập quán là những nguyên tắc xử sự hình
thành một cách tự phát, tồn tại lâu đời, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác, trở thành thói quen tự nhiên và mang tính bắt buộc chung như quy phạm
pháp luật.
Nguồn của hệ thống pháp luật Anh gồm hai loại
nguồn chính là luật thành văn và luật bất thành văn. Luật thành văn là các đạo
luật do Nghị viện và các văn bản phụ trợ do Chính phủ ban hành. Luật bất thành
văn bao gồm hai bộ phận: Một là, các tập quán phổ biến từ thời thượng cổ
(Common Law); Hai là, các tập quán hoặc luật lệ địa phương (Particular Customs
or Laws) có ảnh hưởng tới những người sống ở một vùng nhất định nào đó.
Để được coi là tập quán pháp địa phương phải
thỏa mãn một số tiêu chí. Thứ nhất, tập quán đó phải mang tính cổ xưa, nghĩa là
phải tồn tại từ lâu đời. Thứ hai, tập quán đó phải có tính trường tồn, tức là
tập quán đó phải tồn tại lâu dài và có khả năng tiếp tục tồn tịa trong tương
lai. Thứ ba, tập quán đó phải được đón nhận một cách tự nguyện, hay nói cách
khác là tập quán đó phải tồn tại công khai và không bị cộng đồng địa phương phủ
nhận. Thứ tư, tập quán đó phải có lý, điều đó không bắt buộc chứng minh rằng có
những lý do chính đáng cho việc áp dụng một tập quán nào đó mà chỉ cần tập quán
đó không đi ngược lại lẽ phải. Thứ năm, tập quán đó phải mang tính chắc chắn,
không thể thay đổi. Thứ sáu, tập quán đó phải mang tính phù hợp, không đi ngược
lại những tập quán khác.
Related articles 01:
1. https://docluat.vn/archive/1801/
2. https://docluat.vn/archive/1357/
3. https://docluat.vn/archive/1227/
Trong lịch sử, những tập quán quan trọng nhất
của Anh là tập quán thương mại đã được đưa vào trong án lệ và hình thành nên
Luật Thương mại và sau này đã được pháp điển hóa thành Luật Hối phiếu năm 1882.
Hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa là hệ
thống pháp luật gắn liền với hệ tư tưởng Mác – Lê Nin về nguồn gốc, bản chất,
hình thức nhà nước và pháp luật, gắn liền với Cách mạng tháng Mười Nga và sự ra
đời, phát triển của Nhà nước xã hội chủ nghĩa(6). Nguồn của hệ thống pháp luật
xã hội chủ nghĩa rất rộng, trong đó có tập quán pháp luật. Các tập quán pháp
luật thể hiện ở các lệ làng, hương ước, luật tục. Trên thực tế, một số quốc gia
đã nghiên cứu, thể chế hóa một số tập quán phù hợp vào luật pháp để điều chỉnh
các quan hệ xã hội.
Nguồn của hệ thống pháp luật Hồi giáo bao gồm
Kinh Coran và Sunna; nguồn phát sinh bao gồm Jima và Qias. Kinh Coran là cuốn
kinh thánh của đạo Hồi được viết bằng tiếng Ả Rập. Kinh Coran hình thành từ
những gì mà Mohammed tuyên đọc hay đọc lại những lời của thượng đế khi thuyết
giảng. Kinh Coran gồm 114 chương, chia thành các tiết với 6.237 đoạn thơ. Kinh
Coran nêu ra rất nhiều các luật lệ mà các tín đồ Hồi giáo phải một mực tuân
thủ. Trong kinh Coran chỉ có rất ít đoạn có thể áp dụng như quy phạm pháp luật.
Những đoạn này thường không đủ độ chính xác và cụ thể như những quy phạm pháp
luật và điều chỉnh nhiều vấn đề như: Hiến pháp (10 đoạn); quyền dân sự (70
đoạn); nhân thân (70 đoạn); hình sự (30 đoạn); thủ tục tư pháp (13 đoạn)…;
Sunna có nghĩa là “con đường quen đi” là lối sống, cách hành xử của nhà tiên
tri Mohammed. Sunna bao gồm những hành động cụ thể, những lời khuyên dạy hoặc
cấm đoán xuất phát trực tiếp từ Mohammed. Sunna là nguồn luật quan trọng của
Islam sau kinh Coran. Jima được sử dụng để giải thích các nguồn luật cơ bản,
thực chất nó là quan điểm chung, các giải pháp pháp lý cho những tình huống mới
do các học giả Hồi giáo đưa ra. Jima gần giống như tập quán nhưng không phải là
tập quán. Qias thực chất là phương pháp suy luận tương tự để giải thích luật.
Bằng phương pháp này, các luật gia có thể “kết hợp ý chí của thần thánh với lý
trí của con người”. Qias được cộng đồng Hồi giáo tuân thủ nhờ dựa trên kinh
Coran và Sunna.
Ở Nhật Bản, tập quán pháp được hiểu là những
quy tắc xử sự được xã hội tuân thủ mặc dù không được bất cứ cơ quan công quyền
nào đặt ra. Tập quán được coi là nguồn luật nếu tập quán đó chưa được pháp luật
quy định đồng thời không trái với trật tự công cộng hoặc trái với quy phạm đạo
đức, không bị bãi bỏ bởi bất cứ quy định pháp luật nào do các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền ban hành hoặc được pháp luật quy định cụ thể về việc áp dụng tập
quán đó. Về nguyên tắc, tập quán chỉ là nguồn luật phụ trợ và thẩm phán chỉ áp
dụng tập quán pháp khi không có quy định trong luật thành văn. Vì vậy, luật có
giá trị ràng buộc cao hơn tập quán, nhưng trong lĩnh vực dân sự, có những
trường hợp tập quán cao hơn luật.
Tập quán (Adat) có vai trò khá quan trọng
trong hệ thống pháp luật Indonesia.
Tập quán điều chỉnh phạm vi rất lớn các quan hệ xã hội trong lĩnh vực đất đai,
hôn nhân gia đình, thừa kế…, thậm chí cả trong nhiều giao dịch thương mại.
Ngày nay ở Indonesia,
luật của người Minangkabau đang được tiếp tục nghiên cứu một cách nghiêm túc. Thế
hệ trẻ của Minangkabau được đào tạo theo định kỳ. Một phòng ban về chữ viết của
Minangkabau được thành lập ở Khoa Chữ viết Đại học Andalas. Việc giảng dạy các
tập tục Minangkabau cũng được đưa vào chương trình giảng dạy trung học, trung
học cơ sở và tiểu học(7).
Ở Malaysia, tập quán là một trong
những nguồn luật quan trọng. Mỗi địa phương có những tập quán riêng, một số tập
quán có giá trị áp dụng và được các Tòa án thừa nhận và áp dụng như các quy
định của pháp luật trong các văn bản thành văn và các án lệ. Ở miền Tây Malaysia, các
tập quán được áp dụng trong hoạt động của Tòa án chủ yếu là các tập quán về sở
hữu đất đai và thừa kế. Có hai loại tập quán ở vùng này được áp dụng ở các bang
khác nhau là tập quán theo chế độ mẫu hệ (hai bang Negeri Sembilan và Naning)
được áp dụng chủ yếu ở hai bang Negeri Sembilan và Naning. Các tập quán ở miền
Đông của Malaysia gắn liền
với người dân địa phương, chủ yếu được áp dụng ở nông thôn hai Bang Sabah và Sarawak. Tòa án áp dụng các tập quán này là Tòa án của
người bản xứ. Một trong những tập quán đặc trưng của vùng này là Tòa án có thể
quyết định việc bồi thường thiệt hại được trả bằng hiện vật có giá trị tương
đương với mức thiệt hại.
Tìm hiểu ở nước nước láng giềng Lào cho thấy,
luật tục của các bộ tộc Lào điều chỉnh hầu hết cuộc sống cộng đồng, trong đó có
liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước. Người Lào và một bộ phận người Thái ở
Thái Lan có “hiit sip soong” và “khoong sip sii” với nhiều nét tương đồng với
người Thái ở Việt Nam vẫn luôn tồn tại trong sinh hoạt cộng đồng địa phương(8).
Như vậy, trên thực tế, nhiều nước trên thế
giới đã và đang phát triển luật tục theo cách riêng của mình. Điều này chứng
tỏ, tập quán hay luật tục là một thiết chế quan trọng không thể thiếu trong đời
sống xã hội của các quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo. Mặt khác, tập quán, luật
tục là một trong những nguồn của pháp luật, được nhiều quốc gia sử dụng để góp
phần quản lý xã hội có hiệu quả hơn. Trong yêu cầu hội nhập quốc tế, chúng ta
thấy rằng, nhiều quốc gia, dân tộc đang bỏ công sức, tiền của để nghiên cứu văn
hóa các tộc người trên thế giới nói chung và khoa học nghiên cứu nhân chủng học
nói riêng, để rồi đưa ra những kết luận xác đáng về nguồn gốc của con người,
của tộc người,… Do vậy, việc Việt Nam nghiên cứu luật tục của các dân tộc thiểu
số và hương ước của người Việt, trong đó, có luật tục Thái là con đường, định
hướng chung của nhiều nhà khoa học và nhiều quốc gia trên thế giới trong chiến
lược nghiên cứu khoa học nói chung. Mặt khác, trong tình hình hiện nay, xu thế
của thế giới là giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc, quốc gia mình để nhằm
khẳng định mình, thúc đẩy lòng tự hào dân tộc phục vụ cho nhiệm vụ phát triển
kinh tế – xã hội và việc giao lưu văn hoá quốc tế.
Luật tục là một hiện tượng thuộc thượng tầng
kiến trúc đã hình thành, phát triển cùng sự hành thành và phát triển của xã hội
loài người. Với những đặc điểm riêng, luật tục có mối quan hệ chặt chẽ với pháp
luật và nó sẽ còn tồn tại lâu dài, giữ vị trí quan trọng trong việc điều chỉnh
các quan hệ xã hội nhằm điều hòa, cân bằng xã hội trong cộng đồng các dân tộc
ít người, trở thành bản sắc văn hóa của từng tộc người, cùng tạo nên bản sắc
văn hóa của dân tộc Việt Nam
Tài liệu tham khảo:
Related articles 02:
1. https://docluat.vn/archive/3228/
2. https://docluat.vn/archive/3554/
3. https://docluat.vn/archive/3527/
1. Từ điển Luật học, (2006),
Nxb. Từ điển bách khoa, Nxb. Tư Pháp, Hà Nội.
2. Nxb. Chính trị Quốc gia
(2000), Luật tục và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay, kỷ yếu Hội thảo
khoa học, Hà Nội, tr. 528.
3. Chương trình Thái học Việt
Nam – Viện Việt Nam học và khoa học phát triển, Đại học Quốc gia Hà Nội, Các
tập Kỷ yếu hội thảo Thái học lần thứ nhất (1991); lần thứ hai (1998); lần thứ
ba (2002), lần thứ tư (2006); lần thứ năm (2009); lần thứ sáu (2012).
4. Viện nghiên cứu văn hóa dân
gian (2000), Luật tục và phát triển nông thôn hiện nay ở Việt Nam, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
5. Luật tục và phát triển nông
thôn Việt Nam hiện nay, kỷ yếu Hội thảo khoa học, Hà Nội, 2000.
6. C. Mác và Ph.ăng-ghen
(1998), Về quyền con người, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Hoàng Trinh (2000), Bản sắc
dân tộc và hiện đại hóa trong văn hóa, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8. Ngô Đức Thịnh, Cầm Trọng
(2003), Luật tục Thái ở Việt Nam,
Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.