1.1 1. Bổ sung các khoản 21, 22, 23, 24, 25 và 26 vào sau khoản 20 Điều 3 như sau:1.2 2. Sửa đổi, bổ sung Điều 11 như sau:1.3 3. Sửa đổi, bổ sung tên Chương IV như sau:1.4 4. Bổ sung Mục 3 vào sau Mục 2 Chương IV như sau:1.5 5. Sửa đổi, bổ sung tên Chương VI như sau:1.6 6. Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 105 như sau:1.7 7. Sửa đổi, bổ sung một số khoản của Điều 120 như sau:1.8 8. Bổ sung khoản 9a vào sau khoản 9 Điều 124 như sau:
2.1 1. Sửa đổi, bổ sung điểm a khoản 3 Điều 6 như sau:2.2 2. Sửa đổi, bổ sung khoản 3 và bổ sung khoản 4 vào sau khoản 3 Điều 60 như sau:2.3 3. Sửa đổi, bổ sung Điều 61 như sau:2.4 4. Sửa đổi, bổ sung một số khoản của Điều 80 như sau:2.5 5. Bổ sung khoản 3 vào sau khoản 2 Điều 89 như sau:2.6 6. Sửa đổi, bổ sung tên Mục 4 Chương VIII như sau:2.7 7. Bổ sung Điều 120a vào sau Điều 120 trong Mục 4 Chương VIII như sau:2.8 8. Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 136 như sau:2.9 9. Sửa đổi, bổ sung Điều 148 như sau:2.10 10. Bổ sung khoản 4 và khoản 5 vào sau khoản 3 Điều 198 như sau:2.11 11. Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 205 như sau:2.12 12. Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 218 như sau:
4 Điều 4. Quy định chuyển tiếp
TƯ VẤN & DỊCH VỤ |
LUẬT 42/2019/QH14
ngày 14 tháng 06 năm 2019
SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ
ĐIỀU CỦA LUẬT KINH DOANH BẢO HIỂM, LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ
Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Kinh doanh bảo hiểm số 24/2000/QH10 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo
Luật số 61/2010/QH12
và Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 đã được sửa đổi bổsung một số điều theo Luật số 36/2009/QH12.
Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh
bảo hiểm
1. Bổ sung các khoản 21, 22, 23, 24, 25 và 26 vào sau
khoản 20 Điều 3 như sau:
“21. Dịch vụ phụ trợ bảo hiểm là bộ phận cấu thành
của hoạt động kinh doanh bảo hiểm, do doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi
giới bảo hiểm và tổ chức, cá nhân khác thực hiện nhằm mục đích sinh lợi, bao
gồm tư vấn bảo hiểm, đánh giá rủi ro bảo hiểm, tính toán bảo hiểm, giám định
tổn thất bảo hiểm, hỗ trợ giải quyết bồi thường bảo hiểm.
22. Tư vấn bảo hiểm là hoạt động cung cấp dịch vụ tư vấn về chương trình bảo
hiểm, sản phẩm bảo hiểm, quản trị rủi ro bảo hiểm và đề phòng, hạn chế tổn
thất.
23. Đánh giá rủi ro bảo hiểm là hoạt động nhận
diện, phân loại, đánh giá tính chất và mức độ rủi ro, đánh giá việc quản trị
rủi ro về con người, tài sản, trách nhiệm dân sự làm cơ sở tham gia bảo hiểm.
24. Tính toán bảo hiểm là hoạt động thu thập, phân tích số liệu thống kê, tính
phí bảo hiểm, dự phòng nghiệp vụ, vốn, biên khả năng thanh toán, đánh giá kết
quả hoạt động kinh doanh, xác định giá trị doanh nghiệp để bảo đảm an toàn tài
chính của doanh nghiệp bảo hiểm.
25. Giám định tổn thất bảo hiểm là hoạt động xác định hiện trạng, nguyên nhân, mức độ
tổn thất, tính toán phân bổ trách nhiệm bồi thường tổn thất làm cơ sở giải
quyết bồi thường bảo hiểm.
26. Hỗ trợ giải quyết bồi thường bảo hiểm là hoạt
động hỗ trợ bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm, người thụ hưởng hoặc doanh
nghiệp bảo hiểm thực hiện các thủ tục giải quyết bồi thường bảo hiểm.”.
2. Sửa đổi, bổ sung Điều 11 như sau:
“Điều 11. Quyền tham gia các tổ chức xã hội – nghề
nghiệp về kinh doanh bảo hiểm
Doanh nghiệp bảo hiểm, đại lý bảo hiểm, doanh nghiệp môi
giới bảo hiểm, cá nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm được tham gia
các tổ chức xã hội – nghề nghiệp về kinh doanh bảo hiểm nhằm mục đích phát triển thị trường bảo hiểm, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của thành viên theo quy định của pháp luật.”.
3. Sửa đổi, bổ sung tên Chương IV như sau:
“Chương IV
ĐẠI LÝ BẢO HIỂM, DOANH
NGHIỆP MÔI GIỚI BẢO HIỂM, DỊCH VỤ PHỤ TRỢ BẢO HIỂM”
4. Bổ sung Mục 3 vào sau Mục 2 Chương IV như sau:
“Mục 3
DỊCH VỤ PHỤ TRỢ BẢO HIỂM
Điều 93a. Cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm
1. Nguyên tắc cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm:
a) Trung thực, khách quan, minh bạch; bảo đảm quyền, lợi
ích hợp pháp của các bên liên quan;
b) Tuân theo tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật trong lĩnh
vực phụ trợ bảo hiểm;
c) Tuân theo quy tắc đạo đức, ứng xử nghề nghiệp do tổ
chức xã hội – nghề nghiệp ban hành.
2. Cá nhân, tổ chức đáp ứng các điều kiện quy định tại
Điều 93b của Luật này được quyền cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm theo quy
định sau đây:
a) Cá nhân được quyền cung cấp dịch vụ tư vấn bảo hiểm;
b) Doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm
và tổ chức khác có tư cách pháp nhân được quyền cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo
hiểm (gọi chung là tổ chức cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm).
3. Trách nhiệm của cá nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ phụ
trợ bảo hiểm:
a) Giữ bí mật thông tin khách hàng, sử dụng thông tin khách
hàng đúng mục đích và không được cung cấp cho bên thứ ba mà không có sự chấp
thuận của khách hàng, trừ trường hợp cung cấp theo quy định của pháp luật;
b) Cá nhân cung cấp dịch vụ tư vấn bảo hiểm phải mua bảo
hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho việc cung cấp dịch vụ tư vấn bảo hiểm; tổ chức
cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp phù hợp với từng loại hình dịch vụ
phụ trợ bảo hiểm;
c) Tổ chức cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm không được
cung cấp dịch vụ giám định tổn thất bảo hiểm và hỗ trợ giải quyết bồi thường
bảo hiểm cho hợp đồng bảo hiểm mà tổ chức đó đồng thời là bên mua bảo hiểm hoặc người được bảo hiểm hoặc
người thụ hưởng;
d) Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm không được cung cấp
dịch vụ giám định tổn thất bảo
hiểm cho hợp đồng bảo hiểm mà doanh nghiệp đó thực hiện thu xếp giao kết hợp
đồng bảo hiểm.
4. Hợp đồng cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm phải được
lập thành văn bản.
Điều 93b. Điều kiện cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm
1. https://docluat.vn/archive/2158/
2. https://docluat.vn/archive/1355/
3. https://docluat.vn/archive/2934/
1. Cá nhân cung cấp dịch vụ tư vấn bảo hiểm phải có đủ
các điều kiện sau đây:
a) Từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ;
b) Có văn bằng từ đại học trở lên về chuyên ngành bảo hiểm. Trường hợp không có văn bằng từ đại học
trở lên về chuyên ngành bảo hiểm thì phải có văn bằng từ đại học trở lên về chuyên ngành khác
và chứng chỉ về tư vấn bảo hiểm do cơ sở đào tạo được thành lập và hoạt động
hợp pháp ở trong nước hoặc ở nước ngoài cấp.
2. Tổ chức cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm phải có đủ
các điều kiện sau đây:
a) Có tư cách pháp nhân, được thành lập và hoạt động hợp
pháp;
b) Cá nhân trực tiếp thực hiện hoạt động phụ trợ bảo hiểm
trong tổ chức cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm phải có đủ các điều kiện quy
định tại điểm a khoản 1 Điều này; có văn bằng, chứng chỉ về phụ trợ bảo hiểm phù
hợp với loại hình dịch vụ phụ trợ bảo hiểm thực hiện do cơ sở đào tạo được
thành lập và hoạt động hợp pháp ở trong nước hoặc ở nước ngoài cấp.
Cá nhân trực tiếp thực hiện hoạt động giám định tổn thất
bảo hiểm còn phải đáp ứng các tiêu chuẩn của giám định viên theo quy định của
pháp luật về thương mại.
Cá nhân trực tiếp thực hiện hoạt động tính toán bảo hiểm
còn phải đáp ứng tiêu chuẩn về tuân thủ pháp luật, đạo đức, trình độ chuyên
môn, kinh nghiệm về hành nghề tính toán bảo hiểm, tư cách thành viên của Hội
các nhà tính toán bảo hiểm quốc tế.
Chính phủ quy định chi tiết điểm này.
3. Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định về nội dung chương
trình đào tạo, thi, cấp chứng chỉ về phụ trợ bảo hiểm đối với các cơ sở đào tạo ở trong nước và quy định việc công
nhận đối với chứng chỉ về phụ trợ bảo hiểm do cơ sở đào tạo ở nước ngoài cấp.”.
5. Sửa đổi, bổ sung tên Chương VI như sau:
“Chương VI
DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM VÀ
DOANH NGHIỆP MÔI GIỚI BẢO HIỂM CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI; CUNG CẤP DỊCH VỤ QUA
BIÊN GIỚI”
6. Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 105 như sau:
“2. Doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài cung cấp dịch vụ bảo hiểm qua biên giới, tổ chức nước
ngoài cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm qua biên giới, cá nhân nước ngoài cung
cấp dịch vụ tư vấn bảo
hiểm qua biên giới theo
quy định của Chính phủ.”.
7. Sửa đổi, bổ sung một số khoản của Điều 120 như sau:
a) Sửa đổi, bổ sung khoản 1 như sau:
“1. Ban hành và hướng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm
pháp luật về kinh doanh bảo hiểm, dịch vụ phụ trợ bảo hiểm; xây dựng chiến
lược, kế hoạch và chính sách phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam;”;
b) Sửa đổi, bổ sung khoản 4 như sau:
“4. Giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm thông qua hoạt
động nghiệp vụ, tình hình tài chính, quản trị doanh nghiệp, quản trị rủi ro và
việc chấp hành pháp luật của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo
hiểm; áp dụng các biện pháp cần thiết để doanh
nghiệp bảo hiểm bảo đảm các yêu
cầu về tài chính và thực hiện những cam kết với bên mua bảo hiểm.
Giám sát hoạt động cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm
thông qua việc chấp hành quy định về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật trong lĩnh
vực phụ trợ bảo hiểm, trách nhiệm của cá nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ phụ trợ
bảo hiểm, điều kiện cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm, cung cấp dịch vụ phụ trợ
bảo hiểm qua biên giới;”.
8. Bổ sung khoản 9a vào sau khoản 9 Điều 124 như sau:
“9a. Vi phạm quy định về quy chuẩn kỹ thuật trong lĩnh vực phụ trợ bảo hiểm; trách nhiệm của cá nhân, tổ chức
cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm; điều kiện cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm;
cung cấp loại hình dịch vụ phụ trợ bảo hiểm; cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm
qua biên giới;”.
Điều 2. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí
tuệ
1. Sửa đổi, bổ sung điểm a khoản 3 Điều 6 như sau:
“a) Quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng
công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu được xác lập trên cơ sở quyết định cấp
văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy
định tại Luật này hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo điều ước quốc tế mà Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng được
xác lập trên cơ sở sử dụng, không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký.
Quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý được xác
lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật này hoặc theo điều ước quốc tế mà
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;”.
2. Sửa đổi, bổ sung khoản 3 và bổ sung khoản 4 vào sau
khoản 3 Điều 60 như sau:
“3. Sáng chế không bị coi là mất tính mới nếu được người
có quyền đăng ký quy định tại Điều 86 của Luật này hoặc người có được thông tin
về sáng chế một cách trực tiếp hoặc gián tiếp từ người đó bộc lộ công khai với
điều kiện đơn đăng ký sáng chế được nộp tại Việt Nam trong thời hạn mười hai
tháng kể từ ngày bộc lộ.
4. Quy định tại khoản 3 Điều này cũng áp dụng đối với
sáng chế được bộc lộ trong đơn đăng ký sở hữu công nghiệp hoặc văn bằng bảo hộ
sở hữu công nghiệp do cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu công nghiệp công bố
trong trường hợp việc công bố không phù hợp với quy định của pháp luật hoặc đơn
do người không có quyền đăng ký nộp.”.
3. Sửa đổi, bổ sung Điều 61 như sau:
“Điều 61. Trình độ sáng tạo của sáng chế
1. Sáng chế được coi là có trình độ sáng tạo nếu căn cứ
vào các giải pháp kỹ thuật đã được bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô
tả bằng văn bản hoặc dưới bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước
ngoài trước ngày nộp đơn hoặc trước ngày ưu tiên của đơn đăng ký sáng chế trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu
tiên, sáng chế đó là một
bước tiến sáng tạo, không thể
được tạo ra một cách dễ dàng đối với người có hiểu biết trung bình về lĩnh vực
kỹ thuật tương ứng.
2. Giải pháp kỹ thuật là sáng chế được bộc lộ theo quy
định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 60 của Luật này không được lấy làm cơ sở để
đánh giá trình độ sáng tạo của sáng chế đó.”.
4. Sửa đổi, bổ sung một số khoản của Điều 80 như sau:
a) Sửa đổi, bổ sung khoản 1 như sau:
“1. Tên gọi, chỉ dẫn đã trở thành tên gọi chung của hàng
hóa theo nhận thức của người tiêu dùng có liên quan trên lãnh thổ Việt Nam;”;
b) Sửa đổi, bổ sung khoản 3 như sau:
“3. Chỉ dẫn địa lý trùng hoặc tương tự với một nhãn hiệu
đang được bảo hộ hoặc đã được nộp theo đơn đăng ký nhãn hiệu có ngày nộp đơn
hoặc ngày ưu tiên sớm hơn, nếu việc sử dụng chỉ dẫn địa lý đó được thực hiện
thì có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc thương mại của hàng hóa;”.
5. Bổ sung khoản 3 vào sau khoản 2 Điều 89 như sau:
“3. Đơn đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp được nộp
dưới hình thức văn bản ở dạng giấy cho cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu
công nghiệp hoặc dạng điện tử theo hệ thống nộp đơn trực tuyến.”.
6. Sửa đổi, bổ sung tên Mục 4 Chương VIII như sau:
“Mục 4
ĐƠN QUỐC TẾ, ĐỀ NGHỊ
QUỐC TẾ VÀ XỬ LÝ ĐƠN QUỐC TẾ, ĐỀ NGHỊ QUỐC TẾ”
1. https://docluat.vn/archive/3103/
2. https://docluat.vn/archive/3399/
3. https://docluat.vn/archive/1635/
7. Bổ sung Điều 120a vào sau Điều 120 trong Mục 4 Chương
VIII như sau:
“Điều 120a. Đề nghị quốc tế và xử lý đề nghị quốc tế về
chỉ dẫn địa lý
1. Đề nghị công nhận và bảo hộ chỉ dẫn địa lý theo điều
ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đang đàm phán gọi
là đề nghị
quốc tế.
2. Việc công bố đề nghị quốc tế, xử lý ý kiến của người
thứ ba, đánh giá điều kiện bảo hộ đối với chỉ dẫn địa lý trong đề nghị quốc tế
được thực hiện theo các quy định tương ứng tại Luật này đối với chỉ dẫn địa lý
trong
đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý được nộp cho cơ quan quản lý
nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp.”.
8. Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 136 như sau:
“2. Chủ sở hữu nhãn hiệu có nghĩa vụ sử dụng liên tục
nhãn hiệu. Việc sử dụng nhãn hiệu bởi bên nhận chuyển quyền theo hợp đồng sử
dụng nhãn hiệu cũng được coi là hành vi sử dụng nhãn hiệu của chủ sở hữu nhãn
hiệu. Trong trường hợp nhãn hiệu không được sử dụng liên tục từ năm năm trở lên
thì Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu đó bị chấm dứt hiệu lực theo quy định tại
Điều 95 của Luật này.”.
9. Sửa đổi, bổ sung Điều 148 như sau:
“Điều 148. Hiệu lực của hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu
công nghiệp
1. Đối với các loại quyền sở hữu công nghiệp được xác lập trên cơ sở đăng ký theo quy định tại
điểm a khoản 3 Điều 6 của Luật này, hợp đồng
chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp chỉ có hiệu lực khi đã được đăng ký tại
cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp.
2. Đối với các loại quyền sở hữu công nghiệp được xác lập
trên cơ sở đăng ký theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 6 của Luật này, hợp
đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp có hiệu lực theo thỏa thuận giữa các
bên.
3. Hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp tại
khoản 2 Điều này, trừ hợp đồng sử dụng nhãn hiệu, phải đăng ký tại cơ quan quản
lý nhà nước về quyền sở
hữu công nghiệp mới có giá trị pháp lý đối với bên thứ ba.
4. Hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp mặc
nhiên bị chấm dứt hiệu lực nếu quyền sở hữu công nghiệp của bên giao bị chấm
dứt.”.
10. Bổ sung khoản 4 và khoản 5 vào sau khoản 3 Điều 198
như sau:
“4. Tổ chức, cá nhân là bị đơn trong vụ kiện xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ, nếu được Tòa án kết luận là không thực hiện hành vi xâm
phạm có quyền yêu cầu Tòa án buộc nguyên đơn thanh toán cho mình chi phí hợp lý
để thuê luật sư hoặc các chi phí khác theo quy định của pháp luật.
5. Tổ chức, cá nhân lạm dụng thủ tục bảo vệ quyền sở hữu
trí tuệ mà gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân khác thì tổ chức, cá nhân bị
thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên lạm dụng thủ tục đó phải bồi thường
cho những thiệt hại do việc lạm dụng gây ra, trong đó bao gồm chi phí hợp lý để thuê luật sư. Hành vi lạm dụng
thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bao gồm hành vi cố ý vượt quá phạm vi hoặc
mục tiêu của thủ tục này.”.
11. Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 205 như sau:
“1. Trong trường hợp nguyên đơn chứng minh được hành vi
xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đã gây thiệt hại về vật chất cho mình thì có quyền yêu cầu Tòa án quyết định mức bồi thường theo một trong
các căn cứ sau đây:
a) Tổng thiệt hại vật chất tính bằng tiền cộng với khoản
lợi nhuận mà bị đơn đã thu được do thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ, nếu khoản lợi nhuận bị giảm sút của nguyên đơn chưa được tính vào tổng
thiệt hại vật chất;
b) Giá chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ
với giả định bị đơn được nguyên đơn chuyển giao quyền sử dụng đối tượng đó theo hợp đồng sử dụng đối tượng sở
hữu trí tuệ trong phạm vi tương ứng với hành vi xâm phạm đã thực hiện;
c) Thiệt hại vật chất theo các cách tính khác do chủ thể
quyền sở hữu trí tuệ đưa ra phù hợp với quy định của pháp
luật;
d) Trong trường hợp không thể xác định được mức bồi
thường thiệt hại về vật chất theo các căn cứ quy định tại các điểm a, b và c
khoản này thì mức bồi thường thiệt hại về vật chất do Tòa án ấn định, tùy thuộc
vào mức độ thiệt hại, nhưng không quá năm trăm triệu đồng.”.
12. Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 218 như sau:
“1. Khi người yêu cầu tạm dừng làm thủ tục hải quan đã
thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ quy định tại Điều 217 của Luật này thì cơ quan
hải quan ra quyết định tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với lô hàng. Cơ quan
hải quan cung cấp cho chủ thể quyền sở hữu trí tuệ thông tin về tên và địa chỉ
của người gửi hàng; nhà xuất khẩu, người nhận hàng hoặc nhà nhập khẩu; bản mô tả hàng hóa; số lượng hàng hóa; nước xuất xứ
của hàng hóa nếu biết, trong thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày ra quyết định áp
dụng biện pháp hành chính để xử lý đối với hàng hóa giả mạo về nhãn hiệu và
hàng hóa sao chép lậu theo quy định tại khoản 4 Điều 216 của Luật này.”.
Điều 3. Hiệu lực thi hành
1. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 11 năm
2019, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này.
2. Bổ sung mục 32a vào sau mục 32 Phụ lục 4 Danh mục
ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện của Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 đã
được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 90/2015/QH13, Luật số
03/2016/QH14, Luật số 04/2017/QH14 và Luật số 28/2018/QH14 như sau:
“32a. Dịch vụ phụ trợ bảo hiểm bao gồm tư vấn bảo hiểm, đánh giá rủi ro bảo hiểm, tính toán bảo hiểm, giám định tổn
thất bảo hiểm, hỗ trợ giải quyết bồi thường bảo hiểm”.
3. Các dịch vụ phụ trợ bảo hiểm mới phát sinh trong hoạt động kinh doanh bảo
hiểm do Chính phủ quy định và phải được sự đồng ý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trước khi ban hành.
4. Các quy định về sở hữu trí tuệ tại Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 14 tháng 01 năm 2019
đối với các trường hợp sau đây:
a) Đơn đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp có ngày nộp đơn từ ngày 14 tháng 01 năm 2019;
b) Yêu cầu hủy bỏ hiệu lực Bằng độc quyền sáng chế, Bằng
độc quyền giải pháp hữu ích, Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý được cấp
trên cơ sở đơn đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp có ngày nộp đơn từ ngày
14 tháng 01 năm 2019;
c) Yêu cầu chấm dứt hiệu lực của Giấy chứng nhận đăng ký
nhãn hiệu được thực hiện từ ngày 14 tháng 01 năm 2019;
d) Vụ kiện xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ được cơ quan có
thẩm quyền thụ lý từ ngày 14 tháng 01 năm 2019; yêu cầu khác về bảo vệ quyền sở
hữu trí tuệ được thực hiện từ ngày 14 tháng 01 năm 2019.
Điều 4. Quy định chuyển tiếp
1. Trong thời hạn 01 năm kể từ ngày Luật này có hiệu lực,
cá nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm trước ngày Luật này có hiệu
lực phải đáp ứng các điều kiện cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm theo quy định
tại Luật này. Trường hợp hết thời hạn quy định tại khoản này mà không đáp ứng
các điều kiện theo quy định thì cá nhân, tổ chức không được tiếp tục cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm cho
đến khi đáp ứng đủ điều kiện.
2. Các đơn đăng ký sáng chế, chỉ dẫn địa lý được nộp trước ngày 14
tháng 01 năm 2019 được tiếp tục xử lý theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ số
50/2005/QH11 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 36/2009/QH12.
3. Các hợp đồng sử dụng nhãn hiệu đã ký kết giữa các bên
nhưng chưa được đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công
nghiệp trước ngày 14 tháng 01 năm 2019 chỉ có giá trị pháp lý đối với bên thứ ba kể từ ngày 14 tháng 01 năm 2019.
4. Các vụ kiện xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đã được cơ quan có thẩm quyền thụ lý trước ngày 14
tháng 01 năm 2019 nhưng chưa giải quyết xong thì tiếp tục áp dụng quy định của
Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo
Luật số 36/2009/QH12 để giải quyết.
Luật này được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2019.
TƯ VẤN & DỊCH VỤ |