(TBKTSG)
– Mô hình Sở giao dịch hàng hóa tại Việt Nam đã triển khai được tám năm. Tuy
nhiên, tính đến nay, cả nước mới thành lập được rất ít các sở giao dịch hàng
hóa (SGDHH). Điển hình như Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam (VNX) là đơn vị được
thành lập đầu tiên vào năm 2010 có trụ sở đặt tại quận 1, TPHCM. Trong nhiều
năm qua, dù các cổ đông đã đầu tư vào đây hơn 70 tỉ đồng nhưng kết quả lớn nhất
của VNX hiện mới dừng ở “xây dựng mô hình” và bộ tiêu chuẩn giao dịch hàng hóa
theo tiêu chuẩn quốc tế.
Trong
khi đó, Sở Giao dịch hàng hóa Info (Hà Nội) được thành lập năm 2013 đã phải
đóng cửa chỉ sau một thời gian ngắn đi vào hoạt động. Còn Trung tâm Giao dịch
cà phê Buôn Ma Thuột (BCEC) được đổi tên thành Sàn Giao dịch cà phê và hàng hóa
Buôn Ma Thuột (BCCE) vào năm 2015 nhưng đến nay cũng hầu như chưa đi vào hoạt
động.
Hiện
nay, hàng hóa giao dịch tại các sở chủ yếu vẫn là các loại nông sản, thép. So
với mục tiêu ban đầu, hoạt động của SGDHH chưa mang lại hiệu quả như kỳ vọng,
nhất là vai trò kết nối cung – cầu, số lượng nhà đầu tư tham gia ít, tính thanh
khoản chưa cao. Đặc biệt, Việt Nam là nước có kim ngạch xuất khẩu nông sản lớn
nhưng các doanh nghiệp và tổ chức cũng không mặn mà đầu tư phát triển SGDHH để
tạo nên phương thức giao dịch mới phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế
thời kỳ hội nhập. Nguyên nhân chính của tình trạng trên được cho là do mô hình
giao dịch mới, khung pháp lý cho hoạt động này còn thiếu, điều kiện tham gia
của nhà đầu tư chưa rõ ràng, những hoạt động bổ trợ như công nghệ, nhân lực còn
hạn chế.
Nhằm
phát triển mô hình này, trước thực trạng trên, ngày 9-4-2018 vừa qua, Chính phủ
đã ban hành Nghị định số 51/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định số 158/2006/NĐ-CP ngày 28-12-2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật
Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa. Trong đó,
một số sửa đổi đáng chú ý như sau:
Related articles 01:
1. https://docluat.vn/archive/2173/
2. https://docluat.vn/archive/1387/
3. https://docluat.vn/archive/3561/
Nghị định 51/2018 cho phép thương nhân Việt Nam tham gia |
Thứ
nhất, điều 5 đã được sửa đổi theo hướng cho phép thương nhân Việt Nam tham gia
giao dịch mua bán hàng hóa qua SGDHH nước ngoài. Việc thanh toán đối với các
giao dịch mua bán hàng hóa qua SGDHH ở nước ngoài được thực hiện thông qua tổ
chức tín dụng được phép thực hiện hoạt động thanh toán quốc tế trên cơ sở tuân
thủ các quy định về quản lý ngoại hối có liên quan. Do quy mô thị trường Việt
Nam tương đối nhỏ nên việc hình thành riêng một SGDHH cho hàng hóa tại Việt Nam
không phải là sự lựa chọn tối ưu. Hơn nữa, các mặt hàng giao dịch qua sở đều có
tính liên thông với thị trường thế giới rất lớn như cà phê, gạo, cao su… Do
đó, việc mở cửa cho phép thương nhân Việt Nam mua bán hàng hóa qua SGDHH tại
nước ngoài là điều rất cần thiết.
Thứ
hai, điều 8 của Nghị định 51/2018/NĐ-CP đã quy định khá rõ về điều kiện thành
lập SGDHH. Cụ thể, SGDHH được thành lập nếu đáp ứng đủ các điều kiện: (1) Có
vốn điều lệ từ 150 tỉ đồng trở lên; (2) Có hệ thống công nghệ thông tin đáp ứng
các yêu cầu về giải pháp công nghệ và kỹ thuật trong hoạt động mua bán hàng hóa
qua SGDHH như: hệ thống máy chủ hoạt động ổn định và có tối thiểu một máy chủ
dự phòng luôn ở trạng thái sẵn sàng trong trường hợp hệ thống chính xảy ra sự
cố; hệ thống máy chủ đảm bảo sao lưu dữ liệu của các ứng dụng nghiệp vụ, dữ
liệu giao dịch, đảm bảo khôi phục thông tin dữ liệu trong trường hợp phát sinh
sự cố; phần mềm ứng dụng phải thực hiện các yêu cầu về quyền sở hữu trí tuệ
theo quy định của pháp luật; hệ thống phần mềm phải có chức năng nhật ký thao
tác để lưu vết mọi giao dịch hàng hóa, thanh toán, giao nhận trong quy trình
nghiệp vụ tối thiểu trong thời gian năm năm; hệ thống công nghệ thông tin đáp
ứng quy chuẩn kỹ thuật về an toàn thông tin mạng. Các quy định như trên được
đánh giá là tương đối cụ thể, rõ ràng, minh bạch và bắt kịp với xu thế hiện
nay.
Thứ
ba, nghị định mới đã bổ sung một nội dung khá quan trọng liên quan đến quy định
về việc nhà đầu tư nước ngoài có quyền tham gia hoạt động mua bán hàng hóa và
góp vốn vào SGDHH tại Việt Nam bằng việc góp vốn thành lập, mua cổ phần, phần
vốn góp của SGDHH tại Việt Nam với tỷ lệ không quá 49% vốn điều lệ. Thủ tục góp
vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài thực hiện theo quy
định của Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư và các quy định pháp luật khác có liên
quan.
Ngoài
ra, nhà đầu tư nước ngoài được phép tham gia hoạt động mua bán hàng hóa qua
SGDHH với tư cách khách hàng hoặc tham gia làm thành viên của sở giao dịch
(thành viên môi giới, thành viên kinh doanh) với tỷ lệ sở hữu vốn điều lệ không
hạn chế.
Related articles 02:
1. https://docluat.vn/archive/1906/
2. https://docluat.vn/archive/2920/
3. https://docluat.vn/archive/1393/
Việc
cho phép nhà đầu tư nước ngoài tham gia góp vốn thành lập SGDHH được coi là
giải pháp tích cực vì sẽ thu hút được nguồn lực mới. Tuy nhiên, theo nhiều đánh
giá, tỷ lệ tối đa vốn góp ở mức 49% chưa thực sự hấp dẫn, vì mức vốn góp này
chưa có quyền quyết định. Nếu muốn thu hút tốt hơn các nhà đầu tư nước ngoài
thì mức vốn góp tối đa cần được nâng lên ở mức cổ đông nước ngoài được quyền
quyết định nhưng vẫn bảo đảm quyền tham gia và ra các quyết định quan trọng của
cổ đông Việt Nam.
Thứ
tư, về hàng hóa được mua bán qua sở giao dịch, điều 32 của Nghị định 51 quy
định rõ: (1) Đối với các mặt hàng thuộc danh mục hàng hóa kinh doanh có điều
kiện, hạn chế kinh doanh, SGDHH phải đăng ký với cơ quan có thẩm quyền chấp
thuận để niêm yết giao dịch; (2) Đối với những mặt hàng không thuộc danh mục
hàng hóa bị cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện, SGDHH
có trách nhiệm gửi một bộ hồ sơ thông báo với Bộ Công Thương trước khi chính
thức niêm yết giao dịch 30 ngày.
Tuy nhiên, hiện nay, danh mục hàng hóa hạn chế
kinh doanh, kinh doanh có điều kiện vẫn chưa thực sự thống nhất. Nghị định
59/2006/NĐ-CP quy định về danh mục này vẫn có hiệu lực nhưng nhiều nội dung
trong danh mục này hiện đang trái với Luật Đầu tư. Do đó, sẽ hợp lý hơn nếu
Nghị định 51 liệt kê rõ các loại hàng hóa không được mua bán qua sở giao dịch
ngay thay vì dẫn chiếu đến danh mục bị cấm kinh doanh hoặc hạn chế kinh
doanh.
TƯ VẤN & DỊCH VỤ |